tìm bản gốc nhạc hoa lời việt, nhạc hoa bất hủ, tình khúc vượt thời gian, nhạc phim trung quốc hay, lời dịch nhạc trung quốc

      CÙNG TÌM HIỂU VỀ CHỮ VIỆT GỐC TÀU 

Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nhiều các từ như tài xỉu , xíu mại ,lì xì, xập xám ,xí dzách ......cốt những từ này đều không có nghĩa gì trong tiếng Việt ,nhưng khi nhắc đến từ này người ta đều hình tượng được nó như thế nào ..Vậy những từ ấy từ đâu mà có , tại sao lại không có nghĩa gì trong tiếng Việt.Mời các bạn cùng tìm hiểu nguồn gốc của những từ này

Dẫn nhập......
Có một số các bạn trẻ nói với chúng tôi là khó phân biệt được chữ Việt Tàu* với những chữHán Việt mới, khó, lạ, mà các bạn ấy chưa biết. Do đó chúng tôi xin làm sáng tỏ vấn đề hơn mộtchút bằng cách đưa ra ví dụ thiệt dễ theo đề nghị của các bạn ấy.
[(*Hầu hết những chữ Việt gốc Tàu trong bài nầy đều là chữ có gốc Quảng Đông. Chữ nào không phải gốc Quảng Đông sẽ được ký chú trong ngoặc đơn như chữ “xí lắt léo” là gốc Triều Châu sẽ được viết xí lắt léo = chết; hay Quan Thoại.
Chúng tôi dùng số 1, 2, 3, 4, 5, 6 làm ví dụ. Các số trên sẽ được đọc và dùng mẫu tự Việt Nam ký hiệu cách đọc như sau:
Tiếng Việt thuần túy: một hai ba bốn năm sáu
Tiếng Việt giọng Hán Việt: nhứt nhị tam tứ ngũ lục
Giọng Tàu Quảng Đông: dách dì xám xây ựng lục
Giọng Tàu Triều Châu: chực nò xa xí ngầu lác
Giọng Tàu Quan Thoại: dí ư xán xứ ù liu
Câu sau đây gồm một số của các chữ trên:
“Anh Tư tôi, năm mười bốn tuổi thôi học khi xong lớp đệ tứ trung học (lớp chín ngày nay);Ảnh thích chơi hai loại bài: dà dách và xí ngầu lác (tức là chơi đổ hột xúc xắc); trong khi đó chị Ba tôi lại mê bài xập xám (mười ba).Dà dách, xập xám và xí ngầu lác (TC) là ba chữViệt Tàu mà người Việt Nam quen dùng. Không ai nói chơi bài “2,1” hoặc “21” (hai một, hai mươimốt hay hăm mốt); và không ai dùng giọng Hán Việt để nói “chơi bài nhị nhứt hay nhập nhứt, hoặc bài “mười ba, hay thập tam”.
Khi ta phát âm dà dách, hay xập xám người Quảng Đông và dân chơi bài người Việt (không biết nói tiếngTàu) đều hiểu. Cũng y như vậy cho chữ xí ngầu lác đối với người Việt và Triều Châu. Thêm vào, dân ta còn có thói quen gọi Anh Tư(miền đồng bằng Cửu long) hoặc anh Bốn (miềnTrung), và cũng dùng mười bốn hay mười tư tùy địa phương. Chữ “tư “là tiếng Việt biến thể củachữ HV “tứ”. Phong phú thay, nhưng rắc rối thay, cho các em lớn lên bên Hồng Kông, hay hải ngoại.Chúng tôi cố gắng ghi ra ở phần sau một số những chữ Việt Tàu để nhận dạng.
CHỮ VIỆT TÀU PHÁT XUẤTỞ VÙNG NÀO?
Câu trả lời khá đơn giản: Ở Việt Nam, nơi nào có người Tàu sống là nơi đó có một số chữ Việt Tàu. Có thể nói từ Bắc chí Nam nơi nào cũng có một số người Tàu sinh sống thường là nghề buôn bán. Do đó họ thường có mặt ở các chợ,tức là những thành phố nhỏ hay lớn. Việt, Tàu mượn chữ của nhau trong giao dịch hằng ngày,có chữ mượn xài luôn cho tiện vì không có chữ tương đương để dịch; miễn đôi bên hiểu nhau là được. Theo học giả Lê văn Lân (2), ngoài Bắc có mộtsố chữ quen thuộc sau: Hàm xôi phá sáng (đậu phọng rang, nóng giòn có ướp hương liệu), lọmậy cấy (xôi gà), chí mà phù (chè mè đen), tàuxì (tương đậu nành, hột đen), lạp xưởng v.v. Nhưng miền đồng bằng Đồng Nai - Cửu Long(ĐN-CL) có nhiều người gốc Hoa nhất. Họ đã định cư và chung sống với người Việt từ mấy trăm năm nay. Vì vậy có thể nói những chữ ViệtTàu mà dân Việt (kể cả người Việt hải ngoại) còn dùng ngày nay, phần lớn đều phát xuất từ miền ĐN-CL.
Trong số những sắc dân người Hoa có công góp phần mở mang vùng Đồng Nai - Cửu Long, đa số là người Quảng Đông và Phước Kiến. Nhưng cũng có nhiều nhóm khác, trong đó có người Triều Châu (còn gọi là người Tiều). Tuyhầu hết sống bằng nghề buôn bán, nhưng người Triều Châu còn có lối sinh sống khá đặc biệt. Họ sống trong lãnh vực trồng tỉa nhứt là ngành“hàng bông” (tức là nghề trồng rau cải cung cấpcho các chợ). Có thể nói họ là nhóm hòa mình nhiều nhất vào đời sống dân Việt, nhất là ở các tỉnh từ Long Xuyên, Sóc Trăng cho đến BạcLiêu, Cà Mau. Sự có mặt của người Triều Châu được ghi lại trong ca dao:
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu
Hoặc:
Bạc Liêu là xứ cơ cầu,
Dưới sông cá chốt, Triều Châu trên bờ.
Hơn thế nữa, tiếng Việt gốc Triều Châu và Quảng Đông cũng có mặt trong vài câu ca dao “ba rọi” sau đây:
Gió đưa chú “tửng” từng tưng
Gặp chị bán gừng “na nả” chị ơi (7)
(Triều Châu: “tửng” = đứa bé. Một số gia đình dùngchữ nầy để đặt tên ngoài cho con;
Quảng Đông: “na nả”là do chữ “nải nải” = bà mẹ chồng, mà ra.
Trong câu ca dao nầy chắc là tác giả dùng “nảinải” theo nghĩa châm biếm.)
Sau đây là câu ca dao ba rọi khác trong đó có nhiều tiếng Việt gốc Triều Châu:
Chờ anh cho hết sức chờ
Chờ cho ến xại lên bờ khui hui.
(Triều Châu: ến xại = rau muống; khui hui = trổ bông)
Hoặc:
Chim kêu Ngồ Ố (a) Láng Dài A hia (b) xùa bồ (c), a mùi (d) ùm chai (e)
Hoặc: Trời mưa dít am (f) hoang tùa (g)A hia phề chuối (h) xuốt gùa (i) thăm em.
Những chữ cần chú thích đều là tiếng Triều châu: Ngồ Ố = Láng Dài (địa danh); (b) a hia =anh; (c) xùa = cưới vợ; (d) a mùi = em; (e) ùm chai = không biết; (f) dít am = trời tối; (g) hoang tùa = gió lớn; (h) phề = chèo ghe; (i) xuốt = ra đi.
[(Chú thích thêm i: Ba bài ca dao có những chữ chỉ dùng cho văn nói của ngày xưa, người Triều Châu ngày nay cũng không biết viết một số chữ. Thí dụ ến xại hay ếng xại dùng trong văn viết là thung xin xại(thông tâm thái = rau rổng ruột). ]
Theo TS Nguyễn Hữu Phước
Kỳ sau chúng ta cùng tìm hiểu :NGƯỜI TÀU ĐẾN VÙNG ĐỒNG NAI–CỬU LONG TỪ LÚC NÀO?
Cùng đến với chuyên mục nguồn gốc của từ Lẩu ,Tả bín lù ,Bò bía,phở bắt nguồn từ đâu ,và nó có nghĩa gì trong tiếng Tàu qua bài viết CHỮ VIỆT TÀU TRONG VIỆC ĂN UỐNG



Post A Comment:

0 comments so far,add yours